)
người
xã Sóc Sơn huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa).
stella-01
NGUYỄN MỸ 阮美43 người huyện Vĩnh Lại phủ Hạ Hồng.
TRỊNH KHẮC TUY 鄭克綏44 người huyện Vĩnh Ninh phủ Thiệu Thiên.
NGUYỄN ĐỊCH 阮逖45 người huyện Đại An phủ Kiến Hưng46
BÙI LÔI PHỦ 裴雷甫47 người huyện Phú Xuyên phủ Thường Tín.
LÊ CẦU 黎球48 người huyện Phúc Lộc phủ Quốc Oai.
LÊ HIỂN 藜顯49 người huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.
NGUYỄN NGUYÊN CHẨN 阮原稹50 người huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.
Chú thích:
1. Chỉ thi Hội, thi Hội thường tổ chức vào mùa xuân. Vi là khu vực dành cho thí sinh làm bài.
2. Nguyên văn: Tứ đối vu đình, tức thi Đình.
3. Đề điệu: viên quan đứng đầu chịu trách nhiệm toàn bộ công việc của trường thi. Tuần xước: tuần tra canh gác trong ngoài trường thi. Thu quyển: thu các quyển thi của thí sinh. Di phong: quan rọc phách, niêm phong các quyển thi. Đằng lục: người sao chép bài thi của thí sinh (thể lệ trường thi ngày trước không chấm bài trên các văn bản chính). Đối độc: người đọc soát bản sao so với bản chính.
4. Phụ bảng: bảng lấy thêm dưới hạng Tiến sĩ, tức đồng Tiến sĩ xuất thân.
5. Nguyên văn: Quỳnh Lâm, tên vườn hoa lớn phía sau điện Kính Thiên trong hoàng cung, nơi thường tổ chức các cuộc yến tiệc lớn. (Đời Đường ở Trung Quốc các Tiến sĩ được dự yến tiệc ở Hạnh Hoa viên).
6. Chỉ Lê Thánh Tông (vua đương thời khi viết bài ký dựng bia). Hai chữ “trung hưng” tiếp sau chỉ cuộc binh biến tháng 7-1460 do Nguyễn Xí, Đinh Liệt cầm đầu phế truất Lê Nghi Dân, lập Lê Tư Thành (thuộc dòng đích) lên ngôi, tức vua Lê Thánh Tông.
7. Trạng nguyên: danh hiệu khoa cử gọi người đỗ đầu thi Đình có từ đời Đường. Sĩ tử về kinh đô dự khoa thi Tiến sĩ đều phải nộp tờ khai gọi là Nhân thân trạng, nhân đó gọi người đỗ đầu bảng (thuộc hàng Nhất giáp) là Trạng nguyên. Đời Tống có lúc gọi cả 3 người thuộc hàng nhất giáp là Trạng nguyên, từ đời Nguyên về sau chỉ gọi người thứ nhất là Trạng nguyên.
8. Bảng nhãn: người đỗ thứ hai thuộc hàng Nhất giáp.
9. Thám hoa lang: danh hiệu khoa cử có từ đời Đường, lúc đầu để chỉ 2 người trẻ tuổi đỗ hàng Nhất giáp, gọi là Thám hoa sứ, đời Tống gọi là Thám hoa lang. Từ đời Nam Tống về sau gọi gọn là Thám hoa, chỉ người đỗ thứ ba trong hàng Nhất giáp.
10. Nước ta, các khoa thi đời Lý gọi là khoa thi Minh kinh bác học, đời Trần-Hồ gọi là khoa thi Thái học sinh. Lúc đầu chưa đặt các danh hiệu, chỉ chia người thi đỗ làm 3 hạng (Tam giáp). Từ khoa Đinh Mùi Thiên Ứng Chính Bình 16 thứ (1247) đời Trần Thái Tông mới đặt dạnh hiệu cho 3 người đỗ cao nhất (thuộc hàng Nhất giáp) là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lang (sau gọi gọn là Thám hoa). Đến năm khắc bia này (1484) Bộ Lễ xin chính thức quy định các danh hiệu như dẫn trên.
11. Nhạn tháp: tên tháp chùa Từ Ân ở kinh đô Trường An (Trung Quốc). Các khoa thi Tiến sĩ đời Đường sau khi truyền loa gọi tên người thi đỗ thì khắc tên ở Nhạn tháp chùa Từ Ân.
12. Long hổ: Tức Long hổ bảng, người đời Đường thường gọi bảng báo tên người đậu Tiến sĩ là "Long hổ bảng".
13. Nguyên văn: hiền quan, nghĩa là cửa của người hiền, chỉ nhà Thái học. Đổng Trọng Thư đời Hán viết: “Dưỡng sĩ chi đại mạc đại hồ Thái học. Thái học giả, hiền sĩ chi sở quan dã” (Sự lớn lao của việc nuôi dưỡng kẻ sĩ không gì lớn bằng nhà Thái học. Nhà Thái học là cửa cổng mà hiền sĩ phải đi qua).
14. Thân Nhân Trung (1419-1499) tự Hậu Phủ , người xã Yên Ninh huyện Yên Dũng (nay thuộc xã Ninh Sơn huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông. Ông giữ các chức quan, như Thượng thư Bộ Lại, Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các Đại học sĩ, Nhập nội Phụ chính, Tế tửu Quốc tử giám; là thành viên của Hội Tao Đàn và được vua Lê Thánh Tông phong làm Tao Đàn Phó Nguyên soái.
15. Nguyễn Trực (1417-1474) hiệu Hu Liêu và tự là Công Dĩnh , người xã Bối Khê huyện Thanh Oai tỉnh Hà Đông (nay thuộc xã Tam Hưng huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây). Ông là người yêu văn chương và giữ các chức quan như: Thự trung thư lệnh, Tri tam quán sự, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc tử giám, từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
16. Nguyễn Như Đổ (1424-1525) hiệu Khiêm Trai và tự là Mạnh An , người xã Đại Lan huyện Thanh Đàm (nay thuộc huyện Thanh Trì Tp. Hà Nội); sau trú quán tại làng Tử Dương huyện Thượng Phúc (nay thuộc huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Thượng thư Bộ Lại kiêm Tế tửu Quốc tử giám. Ông được cử 3 lần đi sứ (năm1443, năm 1450 và năm 1459) sang nhà Minh (Trung Quốc).
17. Huyện Thanh Trì, tên đương thời (đời Lê sơ) là huyện Thanh Đàm thuộc phủ Thường Tín. Đầu đời Lê Trung hưng, kiêng chữ Đàm (tên huý Thế Tông Lê Duy Đàm (1573-1600), đổi gọi là Thanh Trì ; sau lại kiêng chữ Thanh (trong) là tên tước của Thanh vương Trịnh Tráng (1623-1657), đổi viết Thanh Trì .
18. Lương Như Hộc (? -? ) tự là Tường Phủ , người xã Hồng Liễu huyện Trường Tân (nay là thôn Thanh Liễu xã Tân Hưng huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương). Ông làm quan đến chức Đô Ngự sử, hai lần được cử đi sứ sang nhà Minh, được về trí sĩ. Ông có công dạy nghề khắc ván in cho dân làng Hồng Liễu. Sau khi ông mất, dân làng tôn thờ làm thành hoàng.
19. Trần Văn Huy (? -? ) người xã Thái Bạt huyện Bất Bạt (nay thuộc xã Tòng Bạt huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Ông là thân phụ của Trần Văn Cẩn. Có người nói ông là người xã Quảng Bị (cùng huyện). Làm quan Thượng thư Bộ Lại.
20. Hoàng Sằn Phu (? -? ) người xã Tiên Kiều huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Hoàng môn Thị lang kiêm Quốc sử Tu soạn.
21. Nguyễn Hộc (1412-? ) người xã Cổ Kinh huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Thạch Kênh huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh). Ông làm quan Thượng thư Bộ Binh kiêm Hàn lâm viện Học sĩ, tước hầu.
22. Vũ Lãm (? -? ) nguyên quán xã Tiên Kiều huyện Kim Động (nay thuộc xã Bảo Khê huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên). Trú quán xã Kim Lan huyện Gia Lâm (nay thuộc xã Kim Lan huyện Gia Lâm Tp. Hà Nội). Ông làm quan Ngự tiền học sinh, Hàn lâm viện Trực học sĩ.
23. Nguyễn Hữu Phu (1413-? ) tự Hiển Danh , người xã Sơn Đồng huyện Đan Phượng (nay thuộc xã Sơn Đồng huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây). Ông giữ các chức quan, như An phủ sứ Thái Nguyên, An phủ sứ Khoái Lộ và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
24. Phạm Cư (? -? )người xã La Phù huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã La Phù huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Thái bộc tự khanh, quyền Tham chính Lạng Sơn và được cử đi sứ (năm 1464) sang nhà Minh (Trung Quốc). Có sách ghi ông là Nguyễn Cư.
25. Trần Bá Linh (? -? ) người xã Thị Cầu huyện Vũ Ninh (nay thuộc phường Thị Cầu thị xã Bắc Ninh tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Thẩm hình viện, Tri Đông đạo quân dân bạ tịch và được cử đi sứ (năm 1459) sang nhà Minh (Trung Quốc).
26. Huyện Vũ Giàng, đời Lê sơ là huyện Vũ Ninh, đầu đời Lê Trung hưng kiêng huý Trang Tông Lê Duy Ninh nên mới đổi là Vũ Giang (sau kiêng tên chúa Trịnh Giang đọc chệch là Vũ Giàng).
27. Ngô Sĩ Liên (? -? ) người xã Chúc Sơn huyện Chương Đức (nay thuộc xã Ngọc Sơn huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây). Ông giữ các chức quan, như Đô Ngự sử, Hữu Thị lang Bộ Lễ, Quốc tử giám Tư nghiệp, kiêm Sử quán Tu soạn. Ông thọ hơn 90 tuổi.
28. Nguyễn Duy Tắc (? -? ) người xã Thiên Đông huyện Tiên Lữ (nay thuộc xã Dị Chế huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên). Ông từng làm quan Hiến sát sứ.
29. Nguyễn Cư Đạo (? -? ) người xã Đông Côi huyện Gia Định (nay thuộc xã An Bình huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Ngự sử đài Đô Ngự sử, Thượng thư Bộ Hộ, Tri Kinh diên sự và được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
30. Phan Viên (1421-? ) người xã Bàn Thạch huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Sơn Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh). Ông làm quan Quốc tử giám Tế tửu.
31. Nguyễn Đạt (? -? ) người xã Diên Trường huyện Thanh Đàm (nay thuộc huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội). Ông làm quan Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ.
32. Bùi Hựu (? -? ) người xã Lam Điền huyện Chương Đức (nay thuộc xã Lam Điền huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Thị lang và được cử đi sứ (năm 1462) sang nhà Minh (Trung Quốc).
33. Phạm Như Trung (1413-? ) người xã Nhân Lý huyện Thanh Lâm (nay thuộc thị trấn Nam Sách huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Đông các Hiệu thư.
34. Trần Đương (? -? ) người xã Triền Thủy huyện Đông Yên (nay thuộc xã Đông Kết huyện Châu Giang tỉnh Hưng Yên). Ông làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử.
35. Ngô Thế Dụ (? -? ) người xã Khê Nữ huyện Kim Hoa (nay thuộc xã Nguyên Khê huyện Đông Anh Tp. Hà Nội). Ông làm quan Tả Thị lang.
36. Khúc Hữu Thành (? -? ) người xã Thiện Tài huyện Thiện Tài (nay thuộc huyện Lương Tài tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Binh.
37. Lê Lâm (1411-? ) người xã Hạ Bì huyện Bất Bạt (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Ông giữ các chức quan, như Ngự tiền học sinh, Chủ bạ, Ngự sử đài, Giám sát Ngự sử.
38. Nguyễn Thiện Tích (? -? ) người xã Tiền Liệt huyện Bình Hà (nay thuộc xã Tân Phong huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Thượng thư kiêm Đô Ngự sử.
39. Nguyễn Nghị (1412-? ) người xã Trác Châu huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã An Châu huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Tham chính.
40. Trịnh Thiết Trường (? -? ) người xã Đông Lý huyện Yên Định (nay thuộc xã Hạnh Phúc huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hóa). Đi thi khoa này, ông quyết đoạt danh hiệu Cập đệ (tức hàng Tam khôi là Trạng nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), nhưng chỉ đỗ hạng Tam giáp, ông từ chối không nhận. Khoa sau Thái Hòa năm thứ 6 (1448), ông lại đi thi, quả nhiên đỗ Bảng nhãn. Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm viện Thị giảng, Hữu Thị lang và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
41. Trần Bàn (? -? ) người xã Từ Sơn huyện Quế Dương (nay thuộc xã Bồng Lai huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh). Ông giữ các chức quan, như Đông các Đại học sĩ Ngự sử đại phu, Tả Thị lang Bộ Lại và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).
42. Nguyễn Quốc Kiệt (? -? ) người xã Trang Liệt huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Đồng Quang huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh). Ông làm quan Thượng thư kiêm Thẩm hình viện.
43. Nguyễn Mỹ (? -? ) chưa rõ xã, huyện Vĩnh Lại xưa bao gồm huyện Vĩnh Bảo Tp. Hải Phòng và một phần huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương ngày nay. Ông từng giữ chức Tả Thị lang Bộ Lễ.
44. Trịnh Khắc Tuy (1413-?
) người xã Sóc Sơn huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa). Sự nghiệp của ông hiện chưa rõ.
45. Nguyễn Địch (? -? ) người xã Vụ Lạc huyện Đại An (nay thuộc huyện Ý Yên tỉnh Nam Định). Ông làm quan Tả Thị lang.
46. Phủ Kiến Hưng, đời Lý là huyện Ứng Phong, nhà Trần gọi là phủ Ứng Phong, sau kiêng đồng âm chữ Phong (tên huý Khâm Từ Hoàng thái hậu, mẹ Trần Anh Tông), đổi gọi là phủ Kiến Hưng. Thời thuộc Minh, đổi phủ Kiến Hưng thành phủ Kiến Bình. Nhà Lê đổi là phủ Nghĩa Hưng thuộc thừa tuyên Sơn Nam (sau là xứ), gồm 4 huyện: Thiên Bản, Ý Yên, Vọng Doanh, Đại An. Nay là đất các huyện Vụ Bản và Ý Yên tỉnh Nam Định.
47. Bùi Lôi Phủ (1412-? ) người xã Đào Xá huyện Phù Vân (nay thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Thượng thư Bộ Lại.
48. Lê Cầu (1421-? ) người xã Nam Nguyễn huyện Phúc Lộc (nay thuộc xã Cam Thượng huyện Ba Vì tỉnh Hà Tây). Ông làm quan Bí thư.
49. Lê Hiển (1425-? ) người xã Lạc Thực huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã Đông Lạc huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương). Ông làm quan Trực học sĩ và được cử đi sứ (năm 1463) sang nhà Minh (Trung Quốc). Ông còn có tên là Lê Văn Hiển.
50. Nguyễn Nguyên Chẩn (1425-? ) người xã Lạc Thực huyện Thanh Lâm (nay thuộc xã Đồng Lạc huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương). Ông thi đỗ, nhưng không nhận, vì không đỗ Cập đệ (tức hàng Tam khôi). Đến khoa Mậu Thìn Thái Hòa thứ 6 (1448), ông đi thi lại, vẫn chỉ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân và làm quan Khu mật Trực học sĩ.